Các loài thực vật thuỷ sinh phổ biến như lục bình, cỏ vetiver và cỏ sậy được biết đến có tác dụng xử lý ô nhiễm chất hữu cơ và chất dinh dưỡng trong các nguồn nước mặt. Để khám phá thêm tiềm năng của các loài thực vật thuỷ sinh khác trong việc xử lý ô nhiễm nước thải, các nhà khoa học tại trường Đại học Tôn Đức Thắng và trường Đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu khả năng xử lý chất dinh dưỡng và chất hữu cơ trong nước mặt của một số loài thực vật thủy sinh bao gồm cây dương xỉ lá hẹp, cú cơm và tai bèo chuột.
![](https://www.vista.gov.vn/vn-uploads/news/2025/2-2025/6-2-2025/2.jpg)
Ba loài thực vật thuỷ sinh này được thu gom từ các vùng ven nội ô TP. Hồ Chí Minh và được trồng riêng lẻ trong bốn ngày tại các thùng chứa nước nước máy. Quá trình này nhằm loại bỏ các chất bẩn còn tồn đọng trong cây ra môi trường nước, thông qua cơ chế ưu trương – nhược trương (các chất hữu cơ và kim loại bên trong cây có nồng độ cao hơn môi trường nước nên được thải ra ngoài). Tiếp theo, ba thực vật thuỷ sinh được thay nước và tiếp tục trồng trong môi trường nước thủy cục trong ba ngày để tăng nhanh khả năng thích nghi với môi trường nước, trước khi chuyển sang bước nuôi trồng thực nghiệm.
Tại phòng thí nghiệm, ba loài thực vật thuỷ sinh lần lượt được nuôi trồng trong các thùng nhựa với mẫu nước lấy từ các hồ cảnh quan tại quận 7, TP. Hồ Chí Minh. Các tác giả đã tiến hành thí nghiệm trong 30 ngày, với ba mô hình: Thí nghiệm 1 trồng riêng lẻ ba loài thực vật thuỷ sinh; thí nghiệm trồng kết hợp hai loài thực vật thuỷ sinh được lựa chọn sau thí nghiệm 1; thí nghiệm 3 đối chứng (không nuôi trồng thực vật thuỷ sinh).
Kết quả là cú cơm có hiệu suất xử lý chất dinh dưỡng cao nhất với tổng nitơ (TN) từ 66,7– 82,1%, tổng phốt pho (TP) từ 86,9 – 92,3%. Dương xỉ lá hẹp có khả năng xử lý chất hữu cơ cao nhất (hiệu suất BOD đạt 3,9 – 14%) và bèo tai chuột có hiệu suất thấp nhất. Hiệu suất xử lý cho thấy tỷ lệ chất ô nhiễm giảm khá nhiều so với mức ban đầu.
Nghiên cứu cũng xác định được tỷ lệ nuôi trồng kết hợp tốt nhất giữa dương xỉ lá hẹp và cú cơm là 1:2 (theo khối lượng), với hiệu suất xử lý TP đạt trên 90%, TN trên 60%, BOD trên 30%, cho nước hồ đạt mức B theo QCVN 08:2023/BTNMT (chất lượng nước trung bình, có thể sử dụng cho mục đích sản xuất công nghiệp, nông nghiệp). Đối với các hồ nước mặt, cả mô hình nuôi trồng riêng lẻ ba loài thực vật thuỷ sinh nói trên hay mô hình nuôi kết hợp đều có khả năng xử lý các chất dinh dưỡng, chất hữu cơ, giúp cải thiện chất lượng nước hồ và tạo điểm nhấn cảnh quan sinh thái cho các hồ cảnh quan.
Các tác giả cho rằng cần mở rộng nghiên cứu sang quy mô hồ tự nhiên với dòng nước động, có sự bổ sung dòng chảy và tải lượng ô nhiễm bên ngoài, nhằm xác định chính xác khả năng xử lý ô nhiễm hữu cơ của các loài thực vật thuỷ sinh, qua đó hoàn thiện cơ sở áp dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn các nguồn nước mặt trong đô thị.
N.P.D (tổng hợp)