Trong giai đoạn 5 năm từ 2014-2019, đã xảy ra 182 vụ tai nạn, sự cố hàng hải xảy ra trên tuyến vận tải Bắc Nam, trong đó đối tượng bị nạn chính gồm tàu cá và tàu SB: 103 vụ việc liên quan đến tàu cá; liên quan đến phương tiện SB có 43 vụ việc, gây chìm đắm 27 phươngtiện, làm bốn nười chết; trong đó, 16 vụ tàu tự chìm đắm, 11 vụ mắc cạn, 12 vụ đâm va, 4 sự cố. Về mặt kỹ thuật, tàu pha sông biển (VR-SB) đạt tiêu chuẩn kỹ thuật cao hơn tàu sông loại S1, nhưng thấp hơn nhiều so với tàu biển loại thấp nhất (hạn chế III) nên được quy định chạy cách bờ không quá 12 hải lý và chỉ được hoạt động theo chặng nhất định để tránh chạy quá dài. Tuy vậy, theo các doanh nghiệp vận tải chạy tuyến này, hầu hết tàu SB chở hàng ven biển đều chạy xa hơn 12 hải lý, không khác gì tàu biển, bất chấp các nguy cơ bất lợi về thời tiết. Lý do nếu chạy trong phạm vi 12 hải lý phải bám theo bờ biển hình vòng cung, còn chạy ngoài phạm vi trên là theo hành trình thẳng, tiết kiệm nhiên liệu, rút ngắn quãng đường, thời gian.
![](https://www.vista.gov.vn/vn-uploads/news/2024/6-2024/5-6-2024/4.jpg)
Chủ trương mở tuyến vận tải ven biển nối dài từ Quảng Ninh đi Quảng Bình, Quảng Bình đi Bình Thuận, Bình Thuận đi Kiên Giang và ngược lại được nhiều doanh nghiệp vận tải biển đánh giá là rất đúng đắn, mang lại lợi ích lớn cho doanh nghiệp, góp phần giảm tải cho đường bộ và giảm giá thành vận tải. Tuy vậy, như phân tích ở trên, để phát triển bền vững, cần có những biện pháp thiết thực, hiệu quả để bảo đảm an toàn hàng hải cho những con tàu mang cấp VR-SB hoạt động trên tuyến vận tải trên là hết sức cấp bách. Từ thực tế trên, ThS. Nguyễn Văn Tính và nhóm nghiên cứu tại Cục Hàng hải Việt Nam đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu và xây dựng cơ sở khoa học, dữ liệu lập vùng tìm kiếm cứu nạn trên tuyến vận tải ven biển Bắc Nam và vùng nội thủy Việt Nam” từ năm 2020 đến năm 2021.
Dựa trên phân tích, đề tài hướng đến thực hiện mục tiêu đánh giá hoạt động giao thông vận tải đường biển, điều kiện khí tượng, hải văn, địa hình, cửa sông, phong tục tập quán của người hành nghề trên biển… trên tuyến vận tải ven biển Bắc Nam và vùng nội thủy Việt Nam để xây dựng cơ sở khoa học, dữ liệu về các vùng TKCN (TKCN) trên tuyến vận tải này.
Phần mềm dữ liệu lập vùng tìm kiếm, cứu nạn trên nền hải đồ số cho tuyến vận tải ven biển Bắc Nam là phần mềm tiện lợi sử dụng, thao tác dễ dàng, khi ứng dụng vào công tác trực ban tìm kiếm, cứu nạn sẽ tiết kiệm thời gian xử lý vụ việc, đặc biệt là xác minh thông tin. Sử dụng phần mềm dữ liệu sẽ nhanh chóng truy xuất được nhiều nguồn dữ liệu, tiết kiệm thời gian, đáp ứng nhanh chóng, hiệu quả, cứu vớt được nhiều sinh mạng người bị nạn, tiết kiệm chi phí, phát huy hiệu quả phương châm bốn tại chỗ trong hoạt động phối hợp tìm kiếm cứu nạn trong điều kiện nguồn lực chuyên trách còn yếu và thiếu, đầu tư công còn hạn chế.
Phần mềm dữ liệu có thể kết nối với các phần mềm khác như AIS, LRIT, Seavision, Hệ thống giám sát tàu cá của Tổng cục thủy sản… nhanh trong huy động được các hàng, tàu cá… trong nƣớc và quốc tế đang hoạt động hoặc đi qua khu vực bị nạn tham gia công tác tìm kiếm cứu nạn. Trong thời gian qua Trung tâm Phối hợp tìm kiếm cứu nạn đã trực tiếp huy động được nhiều tàu hàng quốc tế tham gia tìm kiếm cứu nạn trong điều kiện thời tiết đặc biệt xấu, các phương tiện hiện có không thể điều động đến hiện trường thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn. Ngoài ra, phần mềm dữ liệu có thể cung cấp được phong phú, đầy đủ các dữ liệu cần thiết phục vụ hiệu quả công tác lập kế hoạch tìm kiếm cứu nạn, với các nguồn dữ liệu tĩnh và động, có nguồn gốc rõ ràng, được cung cấp từ các cơ quan quản lý nhà nước và các phần mềm dữ liệu uy tín trên thế giới.
Sau khi được nghiệm thu, phần mềm dữ liệu có thể được các đơn vị sử dụng tiếp tục cải tiến kỹ thuật, ứng dụng công nghệ thông tin, bổ sung thêm dữ liệu phù hợp với khu vực trách nhiệm và dữ liệu thực tế của ngành, đơn vị mình. Đặc biệt, phần mềm mang tính ứng dụng cao trong huấn luyện đào tạo trực ban, nhân viên cứu nạn với phần cơ sở khoa học đầy đủ, chi tiết, rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của đề tài không những có giá trị trong công tác TKCN mà còn tạo tiền đề và là cơ sở khoa học tin cậy cho các hướng nghiên cứu ứng dụng đa mục tiêu khác.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 19911/2021) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
N.P.D (NASATI)